Những nguy cơ khi dùng amphotericin B chống nấm

Amphotericin B là một kháng sinh chống nấm, có các dạng tiêm, dạng uống và chế phẩm dùng ngoài. Tác dụng chống nấm nhờ thuốc gắn vào sterol (chủ yếu là ergosterol) ở màng tế bào nấm làm biến đổi tính thấm của màng.

15.5879

Thuốc cũng gắn với sterol bào chất của người (chủ yếu cholesterol) nên giải thích được một phần độc tính của thuốc đối với người. Để khắc phục độc tính này, thuốc đã được bào chế dưới dạng liposom hoặc phức hợp với lipid.

Thuốc hấp thu rất kém qua đường tiêu hóa, do vậy thuốc chủ yếu được tiêm truyền tĩnh mạch để điều trị các trường hợp nhiễm nấm nặng toàn thân và chỉ dùng đường uống để điều trị tại chỗ (nhiễm nấm đường tiêu hóa và niêm mạc miệng)...

Dạng liposom hoặc phức hợp với lipid: Chỉ được chỉ định cho những trường hợp đã được điều trị bằng amphotericin B thông thường mà bị thất bại hoặc những trường hợp mà amphotericin B thông thường có thể gây độc cho thận hoặc suy thận.

Đối với dạng tiêm, vì phải điều trị lâu dài,  nhiều phản ứng có khả năng nguy hiểm nên người bệnh cần nằm bệnh viện hoặc phải được theo dõi chặt chẽ. Nếu ure huyết hoặc creatinin  huyết cao gấp đôi bình thường, cần ngừng thuốc hoặc giảm liều cho tới khi chức năng thận tốt lên. Hàng tuần phải đếm số lượng hồng cầu và định lượng kali huyết, magie huyết. Phải ngừng thuốc khi chức năng gan bất thường.

Trong quá trình dùng thuốc có thể xảy ra những nguy cơ do thuốc gây ra. Thường gặp: rét run và sốt, đau đầu, đau cơ hoăc khớp; rối loạn tiêu hóa, đau bụng, đi ngoài, buồn nôn, nôn, chán ăn. Bôi tại chỗ: da bị kích ứng, ngứa, phát ban.

Để giảm phản ứng sốt, rét run có thể cho thuốc giảm sốt (paracetamol, ibuprofen và kháng histamin) trước khi truyền tĩnh mạch. 

  DS. Hoàng Thu Thủy

Theo Suckhoedoisong

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]