Ung thư gan: Ghép gan hiệu quả đến đâu?

Đa số các bệnh nhân ung thư gan đều có biểu hiện mơ hồ, không gây đau đớn nên các bệnh nhân đều không biết bệnh. Khi bệnh được phát hiện thì đều sang giai đoạn muộn.

15.5669

Hình ảnh của bệnh ung thư gan

Nam giới bị ung thư gan nhiều hơn

Theo thống kê của Ủy ban Phòng chống ung thư Việt Nam, ung thư gan là căn bệnh khá phổ biến, thường thấy ở tuổi 50-60. Có thể bị ở trẻ em từ 3 đến 4 tuổi. Tỷ lệ ung thư gan nguyên phát ở nam giới cao hơn nữ 4-8 lần. 

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy, có nhiều yếu tố nguy cơ liên quan tới bệnh ung thư gan: Chứng xơ gan hoại tử do viêm gan mạn: Chiếm 15-20% các trường hợp ung thư hóa; Viêm gan do virus: Virus viêm gan B có mặt trong khoảng 70-80% các trường hợp ung thư gan ở Việt Nam; Ăn phải chất aflatoxin có trong nấm hay trong các loại ngũ cốc bị mốc (lạc, khoai tây, gạo, đậu tương).  

Tại Việt Nam, hậu quả của chiến tranh để lại với hàng triệu tấn chất độc màu da cam có chứa chất Dioxin cũng là một yếu tố nguy cơ chính gây nên căn bệnh này.

Ở giai đoạn đầu, ung thư gan gần như không có triệu chứng hoặc rất ít triệu chứng điển hình. Người bệnh có thể thấy mệt mỏi không rõ nguyên nhân, ăn uống kém, cảm giác nặng tức ở hạ sườn phải hoặc thượng vị nhưng không đáng kể, nên không để ý và hay bỏ qua. Thường khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Bệnh nhân kém ăn, gầy sút nhanh, rối loạn tiêu hóa, đau hạ sườn phải. Lúc đầu đau ít, sau đau nhiều, càng ngày càng tăng, dùng các thuốc giảm đau thông thường không kết quả. 

Ung thư trên gan lành thường có triệu chứng gan to với đặc điểm cứng như đá dưới bờ sườn, to không đều, sờ mặt gan thấy có nhiều cục lổn nhổn to nhỏ khác nhau, có trường hợp nhìn thấy gan phồng lên hoặc khối u trên gan lồi lên, di động theo nhịp thở. Ung thư gan trên xơ gan hay gặp hơn, kèm theo triệu chứng của xơ gan: da xạm, bụng có dịch cổ trướng, vàng da, lách to.

Khi các triệu chứng lâm sàng đã rõ, diễn biến của bệnh thường tăng nhanh trong 1-6 tháng, trung bình 2-3 tháng; hãn hữu có trường hợp trên 1 năm. Bệnh nhân tử vong do chảy máu đường tiêu hóa hay vỡ nhân ung thư, hôn mê gan do suy gan, suy mòn dần.

Điều trị ung thư gan bằng ghép gan: Tác dụng phụ nhiều

Đối với những trường hợp có khối u nhỏ, phương pháp điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ khối u. Tuy nhiên, hầu hết những bệnh nhân ung thư gan cũng bị xơ gan và không thể cắt bỏ khối u được. 

Các phương pháp điều trị khác như hóa trị và xạ trị thì cho kết quả rất hạn chế. Ung thư gan là bệnh có tiên lượng xấu, thời gian sống trung bình từ khi phát hiện khoảng 6 tháng. Chỉ có khoảng 1 % người ung thư gan có khả năng sống sót sau 5 năm.

Ghép gan là phương pháp điều trị ung thư gan. Ghép gan sớm trong trường hợp ung thư gan nguyên phát, khối u chưa di căn, khả năng sống còn của bệnh nhân lớn. Tuy nhiên trên thực tế khi chúng ta phát hiện ung thư gan thì khối u thường đã di căn, do đó hiếm khi ung thư gan được chữa lành bằng ghép gan.

Tuy nhiên, tác dụng phụ của ghép gan cũng rất lớn. Theo các chuyên gia y tế, khi áp dụng phương pháp ghép gan điều trị ung thư gan, bệnh nhân phải chịu đựng tác dụng phụ của thuốc để điều trị và ngăn ngừa thải ghép. 

Tất cả các thuốc chống thải ghép đều làm tăng nhiễm trùng cho bệnh nhân, với mỗi loại thuốc sử dụng đều mang lại tác dụng phụ riêng của nó. Một số thuốc làm giữ nước, một số thuốc làm phù mặt, nguy cơ xấu cho bệnh tiểu đường và loãng xương. Một số thuốc có khuynh hướng làm tăng huyết áp và mọc lông trên cơ thể. Một số thuốc gây nhức đầu, run cơ, tiêu chảy, căng thẳng thần kinh, nôn ói, tăng kali và đường trong máu, rối loạn chức năng thận. 

Vậy nên liều lượng thuốc trong quá trình điều trị phải được điều chỉnh rất cẩn thận. Bệnh nhân cần được theo dõi kỹ nồng độ thuốc trong máu để tránh những tổn thương ở thận.

Khánh Ngọc

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]